Lịch sử Đất Quảng Ngãi

I/ Theo dòng lịch sử:

Lịch sử đất Quảng Ngãi dính liền với lịch sử của 2 vùng Thuận-Quảng qua các thời kỳ, ghi dấu sự lập quốc của người Chiêm, các cuộc đấu tranh giành đất đai giữa người Chiêm và người Việt trong quá trình nam tiến của dân tộc Việt Nam.
    Theo các nhà sử học cũ thì vị trí miền Ấn-Trà ngày nay xưa kia đời vua Tần Thủy Hoàng nhà Tần thuộc đất Tượng quận, đời Hán vua Võ đế năm 111 thuộc quận Nam. Cuối đời Đông Hán năm 192, viên công tào huyện Tượng Lâm và Khu Liên, nhân trong sứ có loạn giết quan huyện lệnh, tự lập làm vua, dựng nước Lâm Ấp. Đời Tuỳ vua Tùy Dương đế lập đại nghiệp năm đầu, bình định quân Lâm Ấp, chia làm 3 châu: Quảng Châu, Xung Châu, Nông Châu sau đổi quận Hải Âm; đời Đường đổi thuộc Sơn Châu; đời Tống(960-1278) thuộc Cổ Lũy động của Chiêm Thành.
     Năm 1400 Hồ Quý Ly sai Hành Khiển Đổ Mãn làm Thuỷ quân Đô tướng đem 15 vạn đi đánh chiêm Thành, gặp mùa nước lũ các cánh quân không liên lạc được, hết lương thực năm 1401 phải rút quân về.
Tháng 3 năm 1402, Hồ Hán Thương lên ngôi, tháng 7 lại phong Đỗ Mãn làm Đô tướng, Nguyễn Vị làm chiêu dụ sứ đem quân đi đánh Chiêm Thành.
    Vua Chiêm, Ba Đích Lại sai tướng Chế Sất Nan cầm quân chống cự bị thua, sai cậu là Bố Điền dâng 1 con voi trắng, một voi đen và phẩm vật xin dâng Chiêm động(Phần phía nam Quảng Nam ngày nay).
Vua nhà Hồ ép sứ giả phải đổi tờ biểu, buộc Chiêm thành nạp cả động Cỗ Lũy nữa (Phần phía bắc Quảng Ngãi ngày nay)
Họ Hồ chia đất Chiêm Động và Cổ Lũy động làm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt lộ Thăng Hoa thóng hạt 4 châu, ở đầu nguồn đặt trấn Tận Ninh cử Nguyễn Cảnh Châu làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa, bổ chế Ma nô đa nan Cổ Lũy huyện Thượng hầu để trấn giữa 2 châu Tư, Nghĩa
Năm 1406 quân Minh sang đánh, Hồ Hán Thương thua chạy, Chiêm Thành đem quân chiếm lại Chiêm động.
Đời Minh thuộc (1407-1427) dưới quyền cai trị của Trương Phụ và Mộc Thanh, phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan nhưng Chiêm Thành vẫn còn Trưởng lộ, Nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi.
Đầu nhà Lê (1428) 2 châu Tư và Nghĩa tuy thuộc nhà vua nhưng trên danh nghĩa, không bị trực tiếp cai trị, vẫn ở ngoài vòng pháp chế.
     Để ngăn chặn những vụ cướp phá của người Chiêm, triều Lê phải nghĩ đến đem đại binh đi chinh phạt.
Tháng giêng năm 1446, vua Nhân Tông sai đô đốc Lê Thọ, Tổng quản Lê Khả, Thiếu phó Lê Khắc Phục đem hơn 60 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Quân nhà Lê thừa thăng kéo đến Thị Nại. Tháng 4, quân Lê Thọ đánh Trà Bàn thắng lớn bắt vua Chiêm là Bí Cai, phi tần, bộ thuộc, ngựa voi, võ khí và hàng tướng đem về. Cháu của vua Bồ Đề kà Ma Ha Qui Lai đã hàng, sai bề tôi dâng biếu xưng thần nên được lập làm vua (1446-1449)

Năm 1467, vua Chiêm Trà Toàn đem quân quấy nhiễu Hoá Châu, Năm 1470, lại đem hơn 10 vạn quân thủy, bộ, voi, ngựa ra đánh Hoá Châu lần hai.
Kinh lược sứ Thuận Hoá là Phạm Văn Hiển chống cự không lại phải về cấp báo triều đình.
Vua Lê Thánh Tông quyết định thân chinh, trưng 26 vạn tinh binh, ban 24 điều quân lệnh, sai Thái sứ Đinh Liệt Thái bảo Lê Niệm làm Chánh lỗ tướng quân lãng thủy quan đi trước. Ngày Tân tỵ, vua cáo Thái miếu thân xuất đại quân đi theo, đến miền Thiết Sơn (Nghệ An) gặp nhau. Năm 1471 vua đóng quân ở Thuận Hoá.
Đại quân đến cửa biển Tân Ấp ( hiện Đại Ấp Tam Kỳ) Ngày 5 tháng 2 vua Chiêm Trà Toàn sai em đem 6 viên tướng và 5000 quân, 100 voi lẻn bức dinh trại. Vua Lê mật báo sai Tả du kích tướng quân Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiểm và Tiền phong tướng quân Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem hơn 500 chiến thuyền, 3 vạn tinh binh ban đêm vượt biển vào cửa Sa Kỳ (thuộc Bình Sơn Quảng Ngãi) lập đồn luỹ để chận đường về của quân Chiêm. Ngày hôm sau, vua đem 1000 chiến thuyền và 7 vạn tinh binh ra biển gióng cờ, đánh trống hò tiến reo tới, mặt khác tướng quân bộ binh Nguyễn Đức Trung đã đem quân chiếm các đường ven núi.
Quân Chiêm liệu chống cự không nổi giày xéo nhau, tan vỡ bỏ chạy về Trà Bàn, đến núi Mộ Nộ ở cửa phía tây Sa Kỳ gặp quân Lê Hy Cát, quân Chiêm hoảng hốt chạy ngang lên núi cao, bỏ lại người, ngựa, lương thực đầy đồng. Bấy giờ vua Lê Thánh Tông đến Thể Cẩn (cửa Sơn Trà hiện nay, đông bắc quận Bình Sơn) cho binh tiến đánh, chém hơn 300 đầu, bắt sống hơn 60 người.
Được tin em thua, Trà Toàn sai một người trong hoàng gia đến xin hàng. Vua Lê cũng sai sứ giao thiệp nhưng vẫn tiến binh.
Ngày 27, vua thân xuất đại quân đánh Thị Nại, chém hơn 100 người. Ngày 28, vua tiến binh đến Trà Bàn. Ngày 29 đến dưới thành, vây mấy vòng, sai làm thang lên. Ngày mồng 1 tháng 3 hãm thành Trà Bàn; sai quân leo thang vào ô cửa phía đông chém hơn 4 vạn bắt Trà Toàn và hơn 3 vạn người, ngày mùng 2 ban sư.
Chiếm được Chiêm đô Trà Bàn, vua Lê Thánh Tông tổ chức lại việc cai trị các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa từng lọt vào tay Chiêm thành thời Minh thuộc.
Vua cho người Chiêm đầu hàng là Ba Thái làm Đồng tri phủ Đại Chiêm, Đa Thủy làm Thiêm tri phủ, lai sai Đỗ Tử Qui là Đồng tri châu coi việc quân, dân ở Đại Chiêm, Lê Ỷ Đà làm Tri châu Cỗ Lũy.
    Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), tháng 6, vua Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành vừa chiếm lại đặt làm đạo thừa tuyên Quảng Nam. Đạo thừa tuyên nầy là 1 trong số 13 đạo thừa tuyên trong nuớc, thống lĩnh 3 phủ, 9 huyện trong đó có phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa (Đời Thiệu Trị đổi Mộ Đức) và Nghĩa Giang (năm Thành Thái chia đất Nghĩa Giang nhập vào huyện Nghĩa Hành và phủ Tư Nghĩa)
Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) vua Thánh Tông cải chia nước làm 13 xứ, đổi đạo Thừa tuyên làm xứ, mỗi xứ đặt sở Thủ ngữ Kinh lược sứ
Xứ Quảng Nam lãnh 3 phủ, 9 huyện trong đó có phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện: Nghĩa Giang 12 tổng, 93 xã, Bình Sơn 6 tổng, 70 xã, Mộ Hoa 6 tổng, 5 xã.
Tháng 10 năm Mậu Ngọ 1558 đời vua Anh Tông, Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn phủ Thuận Hoá, năm 1570 kiêm lãnh trấn Quảng Nam
Năm Hoàng Định thứ 5 (1604) cải đặt và đổi tên các khu vực hành chánh Thuận Quảng, đổi phủ Tư Nghĩa thành Quảng Nghĩa đặt chức Tuần Vũ, Khám Lý nhưng cũng thuộc đất Quảng Nam dinh.
                           

 Đời Nguyễn Tây Sơn (1788-1802) cải đất Quảng Nghĩa phủ thành Hoà Nghĩa phủ.

Năm 1802, vua Gia Long khôi phục Hoàn Nghĩa phủ đặt tên là Quảng Nghĩa dinh, các chức quan cai trị gọi là Lưu thủ, Cai bộ, Ký lục.
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) chia đặt tỉnh hạt, đổi trấn làm tỉnh, đặt 2 ty Bố Án (Bố chánh và Án sát) thống thuộc với Quảng Nam. Năm 1834 lại gọi Nam trực tỉnh.

Năm Thành Thái thứ 2 (1890) đặt 3 châu: Sơn Tĩnh, Nghĩa Hành, Mộ Đức thuộc Nghĩa Định Sơn Phòng. Năm 1900 triệt bãi Sơn Phòng, đổi 3 châu ấy làm 3 huyện do tỉnh kiêm quản đặt chức Tuần vũ, bổ chức Bố chánh, cai trị 1 phủ: phủ Tư Nghĩa và 6 huyện; Chương Nghĩa, Bình Sơn, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Tĩnh, Đức Phổ gồm tất cả 24 tổng, 426 xã, thôn ấp, trại.

Từ 1909 đến cuối triều Nguyễn (1945) miền trung châu Quảng Ngãi được chia thành 4 phủ: Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức; 2 huyện: Nghĩa Hành, Đức Phổ gồm 2 tổng, 403 làng. Miền thượng được chia thàng 4 nha: Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ với 27 tổng, 199 nóc; miền duyên hải có nha Lý Sơn 2 làng.

Từ ngày 9/3/1945 đến 19/8/1945 tổ chức hành chánh không đổi mấy, chỉ thay tên trên danh từ: Tuần vũ gọi là Tỉnh trưởng, ở huỵện gọi là huyện trưởng, chức Chánh Phó sứ thời Pháp do một cơ quan hiến binh Nhật đảm trách.

Từ ngày 18/8/1945 đến ngày 1/1/1954 (ngày hội nghị Trung giả quyết định chuyển giao quyền cai trị trong khuôn khổ hiệp định Giơ-ne-vơ 20/7/1954)
Thời kỳ đầu của cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân năm 1945, tỉnh Quảng Ngãi được đổi tên là tỉnh Lê Trung Đình, phủ Tư Nghĩa đổi thành phủ Nguyễn Thụy (Sụy), xã Chánh Lộ lấy tên xã Nguyễn Viện .v.v. Về tổ chức, lập liên xã, bỏ các làng cũ.

Nhưng sau 1 thời gian thay danh hiệu tỉnh, huyện, tổng, xã lấy lại tên cũ. Các phủ huyện, nha trong tỉnh điều gọi tên thống nhất là huyện, gồm tất cả 10 huyện, 124 liên xã. Đảo Lý Sơn nhập vào huyện Bình Sơn nhưng năm 1952 bị quân Pháp chiếm đóng sát nhập hải đảo vào thị xã Đà Nẵng.

Năm 1947, ủy ban hành chánh các cấp đổi tên là uỷ ban khánh chiến hành chánh có thêm 2 ủy viên chỉ định ngang, tất cả 7 người. Ngoài ra ở cấp tỉnh có các cơ quan chuyên môn và quân sự:
+ Một tỉnh đội quân dân
+ Ty Công an nhân dân
+ Ty thông tin tuyên truyền
+ Ty Kinh tế
+ Ty tài chánh
+ Ty Trực Địa (thuế quan, trực thu và địa chánh)
+ Ty Công thương
+ Ty Mậu dịch

Đến năm 1952 có thêm ban thuế nông nghiệp:
Từ 1/11/1954 đến 1971 tỉnh Quảng Ngãi được chia làm 10 quận: Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ (quận trung châu); Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ (quận thượng). Số xã trong toàn tỉnh có thay đổi, năm 1968 có 1658 xã; năm 1970 theo sự xác nhận của bộ nội vụ 122 xã, 319 ấp. Hai xã ở Hải đảo Lý Sơn tháp nhập vào quận Bình Sơn lấy tên Bình Vĩnh, Bình Yến
Xã Cẩm Thành nằm giữa tỉnh lỵ, trước kia thuộc quận Tư Nghĩa hiện đã tách rời, trực thuộc toà Hành Chánh tỉnh.

Ranh giới Quảng Ngãi lúc còn là phủ Tư Nghĩa dưới đời vua Lê Thánh Tông, từ năm Hồng Đức thứ 2 (1471) giáp phủ Hà Đông (Tam Kỳ) phía nam sông Bến Ván tới đèo Bình Đê.

Năm 1971 ranh giới Quảng Ngãi chạy từ phía nam Dốc Sỏi, xã Bình Thắng (Bình Sơn) giáp chân đèo Bình Đê thuộc xã Phổ Châu (Đức Phổ)

Trải nhiều thế kỷ, dân tộc Chiêm từng lấy miền đất này làm thành luỹ ngăn chặn cuộc nam tiến của dân tộc Việt. Hiện nay địa phương còn vài di tích lịch sử, thỉnh thoảng đồng bào vẫn còn đào được nhiều tượng đá với nét điêu khắc tuyệt mỹ, tiêu biểu cho nền văn minh Chiêm Thành.

Đến Quảng Ngãi, du khách còn được nghe nói tên 1 số địa phương chỉ tên sông như: Trà Khúc, Trà Bồng, chỉ cửa biển: Sơn Trà. Những tên này có giọng Chiêm vì tiếng Trà do chữ On, Ma, Trà, Chế. Hiện ở xã Tư Hoà, quận Tư Nghĩa còn nhiều gia đình mang họ Chế ở thôn Đông Mỹ (ấp Mỹ Tiên) còn giữ được sắc phong của triều Nguyễn (Bảo Đại)
Phong trào di dân vào đất Quảng Ngãi bắt đầu từ nữa thế kỷ XV khi Hồ Quý Ly ra lệnh cho dân có của mà không có ruộng ở Nghệ An đem vợ con vào ở để khai khẩn, lại mộ có người trâu đem nạp, cấp cho phẩm tước để lấy trâu cho dân cày. Đời Lê Thánh Tông, sau khi thắng Chiêm về cũng có xuống chiếu mộ dân và đã có những người dân ở vùng Nghệ vượt biển di cư vào đất Quảng.

Ngoài những phần tử tình nguyện trên còn có hạng bị bắt buộc di cư vào đất Quảng. Ấy là những tù nhân bị kết án lưu đày, tù xử tội lưu đi cận châu thì sung vệ quân ở Thăng Hoa, đi ngoài châu thì xung vệ quân ở Tư Nghĩa.

Đã hơn 500 năm , khi tiến vào nam, công cuộc di dân bén rễ và bành trướng nhanh chóng. Dân tộc Việt dựa trên ý thức quốc gia, cơ sở dân tộc để sinh tồn.
Và xứ quảng, miền Ấn Trà ngày nay, phần đất của quê hương Việt là chứng tích lịch sử trong quá trình nam tiến của dân tộc.
                                                                                                                                                 (Còn nữa)