CÁC PHƯƠNG ÁN KHẢ THI VÀ HIỆU QUẢ TRONG GIẢNG DẠY LƯ THUYẾT
Người thực hiện: Trần Ðức Thịnh
Ðể giảng dạy lý thuyết đạt hiệu quả cao người thầy cần thực hiện các chức năng điều hành quá trình dạy học sau:
I/ Tạo tiền đề xuất phát:
Tiền đề xuất phát ở đây muốn nói tới
trình độ, tới những điều kiện ở người sinh viên tại điểm xuất phát
của quá trình dạy học. Những điều kiện này rất đa dạng chúng không
phải chỉ bao gồm kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn cả thái độ,
hành vi thói quen, niềm tin cdũng những đặc điểm nhân cách nữa.
Trong dạy học lý thuyết, người thầy giáo
căn cứ vào những điều kiện có sẵn và tạo nên những tiền đề xuất
phát cần thiết để đạt được những mục đích đặt ra. Việc tạo tiền đề
xuất phát được tiến hành theo qui trình sau:
Trước hết giáo viên phải năm nội dung và
khối lượng kiến tức, kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát.
Muốn như vậy điều quan trọng là cần phải nghiên cứu những tài liệu
chỉ đạo trung ương: Giải thích chương trình, giáo trình , đề cương bài
giảng.
Thứ hai, giáo viên cần thiết những kiến
thức và kỹ năng cần thiết đã có sẵn ở sinh viên tới mức độ nào.
Ðiều này có thể được thực hiện nhờ quá trình theo dõi từ trước hoặc
bằng biện pháp kiểm tra.
Thứ ba, cho tái hiện kiến thức và kỹ
năng cần thiết như cho sinh viên ôn tập trước khi học nội dung mới.
II/ Hướng đích và gây động cơ.
1/Thầy giáo cần bao quát cả mục đích toàn
bộ mục đích bộ phận, cả mục đích lâu dài lẫn mục tiêu cụ thể trước
mắt.
2/Thầy giáo cần trích một số sai lầm của
chủ nghĩa hình thức trong khi hướng đích.
Chắng hạn thầy giáo sử dụng thuật ngữ
mà sinh viên chưa hiểu trong khi hướng đích sẽ không
đem lại hiệu quả mong muốn. Ví dụ: nếu thầy giáo nói rằng: Hôm nay
học về "không gian véc tơ" thì điều đó không có tác dụng hướng đích
vì sinh viên chưa hiểu "không gian véc tơ" là gì.
3/Thầy giáo cần chú ý không chỉ gây động
cơ cho những hoạt động hoặc chủ đề cụ thể như tìm
công thức giải phương trình bậc ba, hình thành khái niệm "hai đường
tròn trực giao". mà còn cho cả những hoạt động nhưng phương thức làm
việc lâu dài như khái quát hóa, quy lạ về quen.
4/Ðồng thời với việc gây động cơ xuất
phát từ những yêu cầu cụ thể trong hoạt động học tập còn có khả
năng gây động cơ xuất phát từ những yêu cầu của xã hội, từ nghĩa
vụ của mỗi người đối với tổ quốc.
III/ Làm việc với nội dung mới.
Chức năng điều hành dạy học này được
gọi là "làm việc với nội dung mới" chứ không gọi là giảng bài mới
để tránh một sự hiểu nhầm nguy hiểm là chỉ có "thầy giáo nói và
sinh viên nghe".
Thực hiện chức năng này nên diễn ra như
sau:
1/Thầy giáo tạo những tình huống gợi ra
những hoạt động tương thi?h với nội dung và mục đích dạy học
2/Sinh viên hoạt động chủ động, tự giác
và tích cực, có sự giao lưu giữa những thành viên trong tập thể.
3/Thầy giáo có tác động điều chỉnh, chẳng
hạn giúp đỡ sinh viên vượt qua những khó nhăn bằng cách phân tách
một hoạt động thành những thành phần đơn giản hơn hoặc cung cấp cho
sinh viên một số kiến thức phương pháp và nói chung là điều chỉnh mức
độ khó khăn của nhiệm vụ dựa vào bậc hoạt động.
4/Thầy giáo giúp sinh viên xác nhận những
kiến thức đạt được trong quá trình hoạt động đưa ra những bình luận
cần thiết để học trò hiểu kiến thức đó một cách sâu sắc hơn, đầy
đủ hơn.
Những tình huống và hoạt động nói trên
phụ thuộc một cách văn bản vào nội dung. Những tri thức cần truyền
thụ rất đa dạng. Nó có thể là một khái niệm định lý, nó có thể
thể hiện dưới dạng một quy tắc có tính chất thuật toán hoặc tìm
đoán.
IV/ Củng cố.
Việc củng cố tri thức và kỹ năng mộ?
cách có định hướng và có hệ thống có một ý nghĩa to lớn trong toán
học. Ðiều đó trước hết là do cấu tạo của giáo trình toán ở trường
CÐSP theo cách là nội dung của mỗi phân môn mới đều dựa vào những
lĩnh vực nội dung đã học trước kia và nội dung của các phân môn
khác. Củng cố cần được thực hiện đối với tất cả các thành phần
của nhân cách đã được phát biểu thành mục đích trong chương trình, tức
là không phải chỉ đối với tri thức mà còn đối với cả kỹ năng, kỹ
xảo ứng dụng chúng, cả thói quen, hành vi và niềm tin.
V/ Kiểm tra và đánh giá.
Ðối với giáo viên và học sinh kiểm tra
nhằm cung cấp cho thầy và trò những thông tin về kết quả dạy học,
trước hết là về tri thức và kỹ năng của học sinh, nhưng cũng lưu ý
cả về mặt năng lực, thái độ và phẩm chất của họ cùng với sự diễn
biến của quá trình dạy học. Hiểu theo nghĩa rộng như vậy thì kiểm tra
bao gồm không phải chỉ những bài kiểm tra học trình, học
phần mà còn cả những việc làm đơn giản hơn nhiều:
Những câu hỏi học sinh tròn quá trình dạy học bằng đàm thoại việc
xen với chuẩn bị bài tập ở nhà.. Hiệu quả kiểm tra càng bộc lộ rõ
nếu có kèm theo sự đánh giá đúng mức của thầy giáo và tập thể học
sinh.
VI/ Hướng dẫn công việc ở nhà.
1/Hướng dẫn công việc ở nhà bao gồm.
- Hướng dẫn học lư thuyết
- Hướng dẫn bài tập ở nhà
- Hướng
dẫn chuẩn bị cho bài sau về mặt kiến thức, dụng cụ.
2/Mục đích là gì.
-
Củng cố những kiến thức
-
Rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, và phát triển năng lực.
-
Tạo tiền đề xuất phát cho tiết học sau.
-
Làm tư liệu và phương tiện để dạy nội dung của tiết sau.
3/Hướng dẫn bài tập ở nhà giáo viên cần
lưu ý một số điểm sau.
- Thứ nhất cần
hạn chế số lượng bài tập ở mức độ hợp lý.
- Thứ hai cần lựa chọn thời điểm thích hợp để hướng
dẫn bài tập, căn cứ vào mối quan hệ về mặt nội dung với những kiến thức học trên
lớp và những bài tập làm trên lớp.
- Thứ ba, nội dung bài tập về nhà cần được cân nhắc cẩn
thận đối chiếu với mục đích yêu vầu và hoàn cảnh lớp học và phải đưa vào kế
hoạch dạy học một cách chủ động.
Tóm lại cần lựa chọn, sắp xếp bài tập về nhà phù hợp với trình độ sinh viên. Cố gắng tạo được sự lạc quan, gây được niềm tin tưởng cho người học. Những bài tập đầu tiên mà đã quá khó thường hạn chế tác dụng này. Vì vậy, cần cần đặc biệt coi trọng việc sử dụng những mạch bài tập phân bậc và có thể ra những bộ phận bài tập phân hóa cho từng loại đối tượng sinh viên.