Tản mạn về nghệ thuật chơi chữ
Các nhà thơ có thể nói là những nhà phù thuỷ về chữ nghĩa, ngôn từ chữ nghĩa trong tay họ biến hoá khôn lường
I. Nói lái:
Nói lái thành thơ có lẽ là nghệ thuật chơi chữ tuyệt
diệu:
Ḍng châu lai láng, đĩa
dầu chong
Công khó đợi chờ, biết có không ?
Nhắc bạn thêm thương người nhạn bắc
Trông đời ngao ngán giữ trời đông
Một dị bản khác:
Nhắc bạn thêm thương t́nh
nhạn bắc
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông
Đêm thâu tiếng dế đau thêm măi
Công khó chờ nhau biết có không ?
Một bài thơ của cụ Thảo Am viết sau khi
nghe tin giặc Pháp chiếm lại đồn Mang Cá, 1946
Lũ quỷ nay lại về
luỹ cũ
Thầy tu mô Phật cũng thù Tây.
Làm thơ nói lái thật không dễ. Ví dụ bài thơ nhắn bạn sau đây:
Làng vọng c̣n hơn cái lọng vàng
Mang sơ tấm áo, chớ mơ sang
Nhắn bạn lên non đừng bắn nhạn
Hang lỗ t́m vào bắt hổ lang
Hoặc:
Đời chua, bậu thử đùa chơi
Chơi ngổ xong rồi, kiếm chỗ ngơi
Bến đậu thênh thang, mời bậu đến
Ngồi đây say tít, ngất ngây đời.
Câu cuối của bài thơ ngồi đây đă bị ép thành ngây đời.
Nói lái thành thơ, không dễ!
II. Câu đối lái, vế đối lái:
Có nhiều cách chơi chữ để sáng tạo câu đối, vế đối. Nói lái là một. Sau
đây là một số vế đối rất hay, rất dí dơm:
- Cụ Trô nhắn cô Trụ, ghé giồng trôm chớ có ḍm trông (?)
- Ông thanh tra nhớ anh Thông về Thủ Đức mười đêm thức đủ
Hoặc các vế đối hóc hiểm của ông Phạm Xuân Phụng như sau:
- Chê số đời, chơi số đề, cố giải sầu, cầu giải số, càng cố càng sầu
- Ngậm tiền, dễ hám, ngậm hàm dễ tiến, tiến hay lùi, túi hay liền.
Một số câu đối khác có cách lái rất ác:
- Đêm ba mười,
thầy giáo tháo giầy mừng tết đến
- Sáng mùng một, giáo chức giức cháo đón xuân sang.
- Đến Củ Chi,
chỉ cu
hỏi củ chi ?
- Qua Cù Mông, cồng mu phải cù mông
- Gái Hóc Môn vừa
hôn
vừa ...
- Trai Giá Rai ...
III. Các cách chơi chữ khác:
* Bài thơ thất ngôn bát cú sau đây của
Lê Quư Đôn (làm lúc lên 8-9 tuổi) thật tài t́nh, trong mỗi câu đều xuất hiện một
loài rắn mà ư tứ lại không chê vào đâu được:
Chẳng phải
liu điu
cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học quyết không tha
Ráo mép chẳng qua phường lếu láo
Lằn lưng cam chịu vết roi da
Thẹn đèn, hổ lửa, đau ḷng
mẹ
Nay thét, mai gầm, rát cổ cha
Từ nay trâu lỗ xin siêng học
Kẽo hổ mang danh tiếng thế gia.
* Dùng từ Hán
Việt, chơi chữ trong cả ngữ nghĩa và âm thanh
- Da trắng vỗ b́ bạch
- Rừng sâu mưa lâm thâm
B́ là da, bạch
là trắng; b́ bạch vừa có nghĩa là da trắng lại c̣n là từ tượng
thanh của hành động vỗ lên da phát ra âm thanh "b́ bạch"
Lâm là rừng, thâm là sâu; lâm thâm
là rừng sâu, lại c̣n thể hiện trạng thái của cơn mưa. Mưa lâm thâm là mưa
nho nhỏ, đều đều kéo dài. (Câu này dù sao cũng không
thể hiện được "cái thần" như câu trước!)
Ngoài ra, vế đối trên c̣n có các vế: Trời xanh màu thiên thanh
(thiên là trời, thanh là xanh) hoặc: Lưỡi đỏ ngó thiệt hồng
(thiệt là lưỡi, hồng là đỏ) Các vế này chưa chuẩn
lắm v́ mới đảm bảo về ngữ nghĩa mà
chưa đạt về mặt tượng thanh.
* Động từ biến thành danh từ:
- Kiến ḅ đĩa thịt, đĩa thịt ḅ
- Ruồi đậu mâm xôi, mâm xôi đậu
* Danh từ và động từ:
- Gái Thanh Khiết
chuyên nghề
cải giá
- Trai Sung
Tích chuyên dạ
kén dâu
Thanh Khiết và Sung Tích vừa là tên của 2
làng nằm đối diện nhau hai bên sông Trà Khúc, vừa có nghĩa tượng trưng cho đặc
tính của con trai - con gái. Ở đây c̣n chơi chữ: nghề cải giá vừa có nghĩa
là nghề làm rau (rau cải, rau giá), nhưng cải giá cũng có nghĩa là “lấy
chồng khác”. Tương tự: kén dâu là nghề trồng dâu nuôi tằm, nhưng cũng có nghĩa
là “t́m vợ”(kén chọn cô dâu). Câu đối thể hiện được tâm lư hay trêu chọc lẫn
nhau giữa trai gái hai làng.(Hai làng cũng "đối nhau" về vị trí địa lư)
* Vế đối sau đây có cách chơi chữ thật hóc
búa:
- Người nhái
bơi ếch
vào bắt cóc,
cóc bắt
được ai, bị trói gô ngồi trơ mắt ếch.
Một câu mà có đủ họ hàng nhà cóc nhái, cóc ở đây vừa là con cóc lại vừa có nghĩa
là không
* Ư tứ sâu xa:
- Hỏa tại thạch trung, trầm thủy đề, thiên niên bất tuyệt
- Mộc cư nguyệt thượng, chiếu nhân gian, vạn thế vô cùng
LĐP