1 Đặc điểm kinh tế chung của Quảng Ngãi.
Trong những năm qua, nền kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi đã có những bước tăng
trưởng đáng kể. Thời kỳ 1996-2000:(theo báo cáo của Đại hội tỉnh Đảng bộ lần
thứ XVI)
- Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân hàng năm 8,56%, đến năm 2000
đạt 3.265 tỉ đồng, bình quân đầu người đạt 2.628.000 đồng, tương đương 192
USD.
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 5,55%/năm.
- Giá trị sản xuất công nghiệp- xây dựng tăng 14,8%/năm.
- Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 9,8%/năm.
Vì vậy, mặc dù khu vực kinh tế nông-lâm-ngư còn chiếm tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế, nhưng nhờ nỗ lực hình thành các khu công
nghiệp, thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là sự hình thành khu công nghiệp Dung
Quất, nên có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của
các ngành công nghiệp-xây dựng, giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp trong cơ cấu
GDP.
Cơ cấu kinh tế của Quảng Ngãi
(Theo giá hiện hành)
Đơn vị: %
Khu vực |
1996 |
1998 |
2000 |
2002 |
Nông-Lâm-Ngư |
43,07 |
38,95 |
34,07 |
33,47 |
2. Các ngành kinh tế:
A/ Nông nghiệp:
Với điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp, Quảng Ngãi có khả năng phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện với qui mô lớn. Đất nông nghiệp có 150.101 ha
chiếm 29,3% diện tích toàn tỉnh. Cơ cấu nông nghiệp (theo giá hiện hành) năm
2002 như sau: Trồng trọt: 67,76%, Chăn nuôi: 27,49%, Dịch vụ nông nghiệp:
4,75%.
- Ngành trồng trọt:
+Ngành
trồng trọt giữ vai trò chủ đạo trong sản xuất nông nghiệp, trong đó lúa là cây
lương thực chính và chiếm diện tích lớn nhất. Năm 2002, trong số 150.101 ha ,
cây lúa chiếm 81.178 ha, chiếm 54,1% diện tích trồng trọt của tỉnh.
Năm 2002 đạt sản lượng 329.618 tấn, năng suất bình quân: 40,4 tạ/ha
Bình quân lương thực đầu người năm 2002: 291 kg/người, thấp hơn trung bình
chung của cả nước.
+Cây mía là cây CN quan trọng nhất. Diện tích mía năm 2002 là 9.384 ha. Sản
lượng: 486.956 tấn. Năng suất còn khiêm tốn: 55-60 tấn/ha
-
Ngành chăn nuôi: Quảng Ngãi có điều kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi
trâu, bò, lợn, dê, gà, vịt, ngan ...
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng hàng năm cũng tăng: 1998 là 26.905 tấn, năm
2002 lên 34.905 tấn.
Để phát triển nông nghiệp, ngoài việc đầu tư kỹ thuật, giống, phân bón, hệ
thống thuỷ lợi đã được xây dựng, nhiều công trình thuỷ lợi mới đã được
xây dựng như hồ Gia Hội, hồ đập Cù Và, hồ Liệt Sơn, đập Di Lăng, đập Trà
Thuỷ, hồ Tôn Dung, đặc biệt là công trình đại thuỷ nông Thạch Nham đưa nước
tưới cho hơn 50.000 ha ở các huyện đồng bằng. Hiện nay, tỉnh đang xây dựng
thêm một số hồ chứa nước khác như hồ Núi Ngang, hồ Nước Trong, hồ Chóp
Vung ... nhằm đáp ứng nước tưới cho một diện tích lớn của tỉnh vào mùa khô.
B/ Lâm nghiệp:
Lâm nghiệp cũng là một ngành có tiềm năng lớn ở Quảng Ngãi, đất lâm nghiệp
chiếm 396.863 ha, nhưng đất có rừng chỉ chiếm 116.608 ha (29,4%). Vì vậy trong
những năm qua, việc trồng rừng đầu nguồn, để phủ xanh đất trống đồi trọc, đất
bạc màu, đất ven biển cũng như trồng rừng nguyên liệu đã được đẩy mạnh. Diện
tích rừng hàng năm trồng thêm từ 3500-4000 ha.
Rừng tự nhiên của Quảng Ngãi có nhiều loại gỗ quý như lim, giỗi, sao cát, vênh
vênh, chò, trắc, huỳnh, kiền kiền, gõ... Trữ lượng gỗ có khoảng 9 triệu m3
. Ngoài gỗ, trong rừng còn có tre, nứa, song, mây, đót, lá nón...làm nguồn
nguyên liệu cho tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. Rừng Quảng Ngãi còn có
nhiều loại cây thuốc như sa nhân, hà thủ ô, thiên niên kiện, ngũ gia bì,
sâm, các loại cây lấy sợi, cây có dầu, trầm hương, cây lấy nhựa và các loại
nấm. Cây quế là đặc sản nổi tiếng được trồng nhiều ở Trà Bồng.
Trong rừng là nơi sinh sống của nhiều loại động vật như cọp, gấu, hươu, nai,
khỉ, trăn, heo rừng ...cùng nhiều loài chim quý hiếm khác.
Việc khai thác gỗ và các loại lâm sản khác không hợp lý, việc đốt nương làm
rẫy... đặc biệt là khu vực rừng đầu nguồn đã và đang có nguy cơ huỷ hoại môi
trường và hệ sinh thái.
C/ Ngư nghiệp:
Ngư nghiệp là một trong những thế mạnh lớn của tỉnh Quảng Ngãi, với vùng biển
rộng lớn và gần 3.800 ha diện tích mặt nước ngọt, Quảng Ngãi có điều kiện để
phát triển ngư nghiệp.
Năm 2002, số lượng tàu thuyền máy có tổng công suất 128.975 CV cùng hàng trăm
tàu thuyền nhỏ khác. Hàng năm có khả năng đánh bắt một số lượng lớn các loại
cá, tôm, cùng nhiều loại khác là 76.818 tấn, là một trong những tỉnh có sản
lượng đánh bắt thuỷ sản lớn của cả nước.
Việc đánh bắt thuỷ sản tập trung ở các huyện ven biển và hải đảo như Bình Sơn,
Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ, và Lý Sơn.
Ngoài việc đánh bắt tự nhiên, nhân dân vùng ven biển còn nuôi trồng thuỷ sản
mà chủ yếu là nuôi tôm xuất khẩu và nuôi cá nước ngọt. Đặc biệt mô hình nuôi
tôm trên vùng đất cát ven biển ở huyện Đức Phổ thành công với năng suất cao
(trên 1.500 kg/ha) đã đẩy nhanh sản lượng nuôi tôm của tỉnh trong những năm
gần đây: Từ 187 tấn năm 1997 lên 1.049 tấn năm 2002, nâng tổng lượng thuỷ sản
của cả tỉnh lên 78.052 tấn.
Muối cũng là một sản phẩm đáng chú ý của tỉnh Quảng Ngãi với cánh đồng muối Sa
Huỳnh nổi tiếng, cánh đồng muối ở Bình Châu... Sản lượng hàng năm từ 3000-9000 tấn, năm 2002 là 7200 tấn.
D/ Công nghiệp:
* Nhìn chung, nền công nghiệp của tỉnh Quảng Ngãi phát triển chậm và chiếm tỷ
lệ khiêm tốn trong nền kinh tế, giá trị sản xuất công nghiệp tăng lên không
ngừng nhưng đến năm 2002 mới đạt1.537,1 tỉ đồng VN, trong đó công nghiệp trung
ương chiếm 826,2 tỉ đồng, bằng 53,75%.
Toàn tỉnh có 13.122 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong đó khu vực kinh tế trong
nước có 13.121 cơ sở sản xuất (15 cơ sở quốc doanh: 9 cơ sở do TW quản lý, còn
6 cơ sở do địa phương quản lý) và 1 cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài. Các cơ sở
công nghiệp đã thu hút một lực lượng lao động lớn của tỉnh, nhưng phần lớn là
lao động phổ thông, năng suất lao động thấp.
Nhìn chung, công nghiệp Quảng Ngãi chia ra 3 nhóm ngành công nghiệp chủ yếu:
+ Công nghiệp khai thác: bao gồm khai thác đá và các loại mỏ khác.
+ Công nghiệp chế biến: chủ yếu là sản xuất thực phẩm và đồ uống; sản xuất
trang phục và nhuộm da, lông thú; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm gỗ,
tre nứa; sản xuất hoá chất và các sản phẩm hoá chất; sản xuất các sản
phẩm từ chất khoáng phi kim loại và một số các sản phẩm cơ khí khác.
+ Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước.
+ Các ngành tiểu thủ công nghiệp của tỉnh có nhiều, nhưng chủ
yếu gồm 2 loại: Chế biến đường đặc sản (kẹo gương, mạch nha, đường phèn, đường
phổi) và sản xuất hàng tiêu dùng (đúc đồng, gốm sứ, khảm xà cừ, đan lát, dệt
thổ cẩm ở miền núi...) Dù được chú trọng khuyến khích nhưng do thiếu vốn,
chưa đổi mới công nghệ và phương thức sản xuất kinh doanh nên các ngành nghề
này tuy còn được duy trì nhưng chưa thật sự khởi sắc.
*Các khu công nghiệp:
Theo qui hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ngãi thời kì 1996-2010 thì chính phủ sẽ
tập trung đầu tư xây dựng Khu công nghiệp Dung Quất và trên địa bàn tỉnh sẽ
hình thành thêm 3 Khu công nghiệp tập trung khác đó là KCN Tịnh Phong, KCN
Quảng Phú, KCN Phổ Phong với các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghiệp lọc
hoá dầu, công nghiệp hoá chất, khai khoáng, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế
biến…
+ Khu công nghiệp Quảng Phú: Diện tích 138 ha, nằm trên địa bàn xã Quảng Phú,
thị xã Quảng Ngãi, nằm cạnh sông Trà Khúc, cách sân bay Chu Lai và khu công
nghiệp Dung Quất 30 km về phía Nam, rất thuận lợi về giao thông đường bộ,
đường biển và đường hàng không.
Tổng vốn đầu tư là 90 tỉ.
Các
lĩnh vực khuyến khích đầu tư là chế biến nông-lâm thuỷ-sản
và các ngành công nghiệp nhẹ
ít gây ô nhiễm môi trường,
phục vụ trong nước và xuất khẩu sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu địa
phương.
Khu công nghiệp này hình thành trên cơ sở cụm chế biến mía đường và chế biến
thực phẩm hiện có.
+ Khu công nghiệp Tịnh Phong: Diện tích 141,72 ha, thuộc địa bàn huyện Sơn Tịnh,
cách trung tâm tỉnh lỵ 8 km về phía bắc, cách khu công nghiệp Dung Quất 20 km
về phía Nam, đó là điều kiện thuận lợi để đầu tư.
Tổng vốn đầu tư phát triển hạ
tầng là 217 tỉ đồng.
Hướng phát triển chính là
sản xuất vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí nội ngoại thất bao gồm cả đồ
gỗ, đồ sứ, vật liệu tổng hợp...; cung ứng các dịch vụ kỹ thuật và công nghệ,
đặc biệt là công nghệ cao; các dịch vụ sửa chữa, chế tạo, lắp ráp thiết bị thi
công, hàng gia dụng; sản xuất các sản phẩm công nghiệp khác.
+Khu công nghiệp Phổ Phong: với nhà máy đường II
+ Khu công nghiệp Dung Quất:
KCN Dung
Quất nằm trên phần diện tích phía Đông của huyện Bình Sơn. Phía Tây Bắc giáp
sân bay Chu Lai, phía Tây giáp quốc lộ 1A, phía Đông và phía Đông Bắc giáp
biển Đông, phía Tây Nam giáp huyện Sơn Tịnh.
Toạ Ðộ địa
lý : 108047’ Ðông; 15023’
Bắc.
Dung Quất nằm ở trung điểm của
Việt Nam, tiếp giáp quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt, gần sân bay Chu Lai, sân
bay Đà Nẵng và là điểm đầu của một trong những tuyến đường xuyên Á nối với Lào,
Campuchia và Thái Lan…
Diện tích toàn KCN : 10.300 ha.
Việc hình thành và phát triển
các KCN của tỉnh sẽ đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá- hiện đại hoá của tỉnh nhà. Mặt khác, các KCN của tỉnh có ý
nghĩa rất lớn trong vai trò hậu cần gắn liền mối liên hệ với KCN Dung Quất.
- Dung Quất
chuyển từ KCN thành Khu kinh tế
Hôm (15/3/04), UBND tỉnh Quảng Ngãi cho biết đề án chuyển Khu công
nghiệp Dung Quất thành Khu kinh tế Dung Quất đã được thông qua tại cuộc họp
giữa Ban Cán sự Chính phủ với lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi cùng Bộ Kế hoạch và Đầu
tư.
Theo đề án, Dung Quất sẽ được hưởng những cơ chế ưu đãi nhất hiện nay, nhằm
tạo ra không gian kinh tế thống nhất giữa Dung Quất và Chu Lai, cũng như giữa
Quảng Ngãi, Quảng Nam với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Đến đầu tháng 11, Khu kinh tế Dung Quất đã có 30 dự án được cấp phép đầu tư
với tổng số vốn đǎng ký đạt 1,8 tỷ USD.
E/ Dịch vụ:
* Giao thông vận
tải và bưu điện:
Quảng Ngãi có hệ thống giao thông khá thuận lợi, bao gồm đường sắt, đường bộ
và đường thuỷ.
Tuyến đường sắt chạy qua Quảng Ngãi dài 98 km.
Quốc lộ 1A chạy qua tỉnh dài 104 km. Những tuyến đường ngang nối quốc lộ 1A
với các địa phương trong tỉnh từ Bắc đến Nam có:
- Châu Ổ - Sa Cần: 17
km.
- Châu Ổ - Sa Kỳ (tỉnh lộ 621) : 23 km.
- Châu Ổ - Trà Bồng ( tỉnh lộ 622): 32,5 km.
- Đường 5B từ quốc lộ 1A đi Di Lăng (tỉnh lộ 623):50 km.
- Quán Cơm (Bắc cầu Trà Khúc) – Sa Kỳ (tỉnh lộ 624): 16,5 km
- Thị xã Quảng Ngãi - Thạch Nham (tỉnh lộ 625): 24 km.
- Thị xã Quảng Ngãi – Thu Xà (tỉnh lộ 626): 6,5 km.
- Thị xã Quảng Ngãi - Thạch Nham (tỉnh lộ 627): 30 km.
- Mộ Đức - Mỹ Á: 20 km.
- Mộ Đức – Ba Tơ – Kon Tum qua quốc lộ 24.
- Đức Phổ - Mỹ Á: 5 km
Các tuyến đường quốc lộ và tỉnh lộ đang được cải tạo và nâng cấp, xây dựng
nhiều cầu cống, cùng với hệ thống giao thông nông thôn phát triển (bê tông
hoá) là điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế- xã hội.
Về đường biển: Quảng Ngãi có cảng Sa Kỳ có khả năng cho tàu 1.000 T cập cảng.
Trong tương lai, khi cảng Dung Quất hình thành sẽ là điều kiện để thúc đẩy nền
kinh tế của tỉnh phát triển.
Ngành bưu chính viễn thông đang phát triển theo hướng hiện đại hoá. Đã xây
dựng tổng đài điện tử kỹ thuật, hệ thống truyền dẫn cáp quang xuyên Việt, hệ
thống vi ba số và vi ba nội tỉnh, bưu điện Dung Quất... đáp ứng nhu cầu thông
tin của các cơ quan, doanh nghiệp và nhân dân. Đến nay, có 91,1% (2000) xã
phường sử dụng điện thoại, bình quân đạt 2,05 máy/1.000 dân.
Nhìn chung, tổng giá trị sản xuất theo giá hiện hành của ngành giao thông vận
tải và bưu điện tăng liên tục và đạt khá. Năm 1997 là 141,9 tỉ đồng, năm 2000
là 189,9 tỉ đồng, năm 2002 là 214,6 tỉ đồng.
*Thương mại, đầu tư và dịch vụ:
- Về nội thương: tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng lên và đạt
2.987,5 tỉ đồng ( năm 2002).
- Về ngoại thương: Kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhưng còn hạn chế. Năm 1997 là
5,980 triệu USD. năm 2002 là 11,119 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
là hàng nông - lâm - thuỷ sản (bạch đàn, bàn ghế, cồn, đường, tinh bột mỳ,
...) và đá xây dựng.
Nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất, trang thiết bị máy móc, nguyên nhiên
vật liệu và hàng tiêu dùng với tổng giá trị là 9,033 triệu USD.
- Quảng Ngãi ít thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Thời kỳ 1988- 2002
chỉ có 8 dự án, nhưng có tổng số vốn đăng ký khá lớn mà tập trung chủ
yếu là khu công nghiệp Dung Quất, chiếm 1.500,673 triệu USD trong tổng số
1.533,043 triệu USD vốn đăng ký.
- Du lịch: nói chung còn yếu kém, phần lớn còn ở dạng tiềm năng. Một số điểm
du lịch đáng kể như: Biển Mỹ Khê(đang được quy hoạch thành khu du lịch, an
dưỡng); Núi Ấn (tổ đình Thiên Ấn, mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng);Chứng tích Sơn Mỹ;
Sa Huỳnh; Thác Trắng; Thạch Nham ...
Cơ sở hạ tầng có các khách sạn Sông Trà, Mỹ Trà, Central... và đang xây dựng
khách sạn Hùng Vương.